Bài đăng trên Tạp chí nhân quyền Việt Nam tháng 6-2013





Để thực hiện chiến lược “đánh đòn phủ đầu”, kế hoạch của Mỹ
tấn công xâm lược Irắc vì mục đích thể hiện cái gọi là “Anh cả thế giới”.Được
chính quyền bật đèn xanh, báo chí Mỹ đã nhất loạt thổi phồng làm rùm beng cái
gọi là “khả năng hạt nhân” và “tàng trữ vũ khí giết người hàng loạt” của Irắc,
đưa tin Irắc mua plutoni của một nước châu Phi để chế tạo bom hạt nhân. Nguy cơ
chiến tranh hạt nhân đang treo lơ lửng trên đầu, vì thế Mỹ phải ra tay trước,
thể hiện như một “Người hùng” cứu nhân loại !.
Khi cuộc chiến tranh Irắc nổ ra,
nhiều hãng thông tấn, nhiều tờ báo đưa tin không hợp “khẩu vị” của họ, bị cấm
đưa tin, bị kiểm duyệt. Chính quyền Mỹ đã kiểm soát rất chặt chẽ các báo, đài đưa
tin chiến sự, họ chỉ đồng ý cho những hãng thông tấn báo chí nào tuân theo
những “Luật” do họ đặt ra. Những nhà báo đưa tin về sự thật tàn bạo của quân
đội Mỹ gây ra đối với dân thường đã bị đe doạ. Một phóng viên nổi tiếng của
Hãng Truyền hình CNN bị đuổi việc ngay lập tức, vì đã thông tin một sự thật
không có lợi cho nhà cầm quyền Mỹ. Đài BBC bị Chính phủ Anh kiện ra toà…vv..
Như vậy thì làm gì có cái gọi là “tự do báo chí thuần túy”, “tự do báo chí
tuyệt đối”, nằm ngoài sự kiểm soát của Nhà nước Mỹ. Vậy cái mà họ gọi là “Tự do
báo chí” thực chất là sử dụng báo chí để bảo vệ quyền lợi và sự thống trị của
họ. Đó chính là thứ tự do giả dối, lừa gạt dư luận, thủ tiêu vai trò của báo
chí.
Còn ở Việt Nam có một số người cơ hội chính trị đã kết bè
với nhau và liên kết với các tổ chức chống cộng cực đoan, các tổ chức thù địch
với Việt Nam để phá hoại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.Họ viết báo, hồi
ký phát tán ra ngoài với những lời lẽ hằn học, bêu riếu, vu cáo hèn mạt, họ
nhổ toẹt vào những hy sinh vô cùng to lớn về sinh mạng của cả một dân tộc mà có
cả những người thân của họ trong các cuộc chiến tranh vệ quốc. Họ gầm gừ, rên
rỉ rằng ở đất nước này không có “tự do báo chí”(!) như họ muốn ,”Viết báo trong
vòng kìm kẹp của luật”(!) hay “Không có tự do báo chí thì dân tộc này mãi mãi
sống trong hang tối”(!) vv..Những người cơ
hội chính trị đó đã thực sự đối lập với lợi ích Tổ quốc, một khi họ nuôi
dã tâm xấu xa đó thì không có quyền nói đến “tự do báo chí”, theo nghĩa chân
chính nhất của từ này.
Vậy do đâu mà những người đó có đòi hỏi vô lý trên? chúng ta
sẽ tìm hiểu “căn bệnh” này. có nguyên nhân từ bên ngoài hẫu thuẫn, đó là những
tổ chức không có thiện cảm với Việt Nam luôn luôn đẻ ra những sản phẩm “quái
thai” từ những định kiến, nhận thức mơ hồ về quyền tự do báo chí Việt Nam.Trong
báo cáo thường niên về tự do báo chí trên thế giới do tổ chức Freedom House
công bố ngày 1-5-2013 họ xếp Việt Nam vào nhóm các nước Không có Tự do báo
chí(!). Một cuộc phỏng vấn dành cho ban Việt ngữ –VOA, ông Shawn Crispin, Đại
diện cấp cao của Ủy ban Bảo vệ các Ký giả ở Đông Nam Á (CPJ), và là tác giả của
cái gọi là:”phúc trình về tự do báo chí tại Việt Nam” đã đánh giá về tình hình tự do báo chí tại Việt
Nam trong năm 2012 như sau:“Rõ ràng là tình hình tự do báo chí ở Việt Nam đã
xuống dốc rất nhanh. Cuộc nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, chính quyền Việt Nam đang tăng
cường đàn áp các blogger độc lập, và các nhà báo viết bài đăng trên mạng. Điều
đó chứng tỏ là chính quyền Việt Nam đã có một nỗ lực phối hợp để siết chặt một
thế giới mạng từng hoạt động tương đối cởi mở, cung cấp các quan điểm và tin
tức đa dạng bên cạnh giới truyền thông chính thức bị nhà nước chi phối”?! Do
hiểu phiến diện hoặc cố tình hiểu sai về tự do báo chí, tổ chức này đã ra công
cổ súy, đấu tranh đòi “tự do báo chí” theo kiểu phương Tây, coi đó là biểu hiện
của “tinh thần dân chủ”,Song, họ không hiểu rằng dân chủ là một thể chế, trong
đó, quyền tự do báo chí của người này không được làm tổn hại đến quyền tự do
của người khác, đến lợi ích của toàn dân tộc. Mặt khác, trong một số ít người,
tư tưởng nêu trên xuất phát từ những toan tính liên quan đến lợi ích, quyền
lực, động cơ cá nhân, từ sự bất mãn của họ với Đảng và Nhà nước. Họ luôn luôn
đặt lợi ích cá nhân lên trên lợi ích của đất nước, chính vì thế, họ có những ý
kiến lạc lõng cực đoan phản lại quyền lợi của dân tộc. Để làm rõ vấn đề cốt lõi
,chỉ rõ thực chất cái gọi là “tự do báo chí” của phương Tây và thực trạng hoạt
động báo chí của Việt Nam hiện nay thì chúng ta đều nhận ra rằng: Đối với báo
chí phương tây thì:Tuy không can thiệp vào hoạt động báo chí, nhưng luật pháp
của các quốc gia đều có những quy định nhằm ngăn chận sự lạm quyền của báo chí,
chẳng hạn, về các thông tin của chính phủ, mọi chính phủ đều phân biệt những
thông tin nào được phép phổ biến cho công chúng và những thông tin nào thuộc
loại phổ biến hạn chế hay tuyệt mật không thể tiết lộ với mục đích bảo vệ lợi
ích quốc gia. Hầu hết các tổ chức làm báo của phương tây đều tự đưa ra những
quy định của tổ chức mình và yêu cầu những người thuộc tổ chức phải tuân thủ.
Các tổ chức báo chí cũng họp thành những hiệp hội báo chí để bảo vệ quyền người
làm báo, và những hiệp hội này cũng nêu ra các quy định về đạo đức nghề
nghiệp.Mặc dù báo chí phương tây có quyền tự do nhưng xã hội phương tây cũng
tôn trọng quyền tự do cá nhân và báo chí không có quyền làm phương hại đến lợi
ích quốc gia, lợi ích xã hội, lợi ích cộng đồng và lợi ích cá nhân. Do đó, nền
báo chí dân chủ phương tây tự đặt ra cho họ những tiêu chuẩn của việc hành nghề
gọi là hệ thống đạo đức báo chí. Chính vì thế mà ông Tony Burman, cựu tổng biên
tập của một hãng tin lớn trên thế giới là CBC News, đã phát biểu:“Mọi tổ chức
báo chí đều chỉ có thể dựa vào danh tiếng và sự được tín nhiệm của chính mình.”
Những người làm báo thiếu cẩn trọng vì nôn nóng phát hiện vụ việc hoặc khao
khát giải thưởng làm báo cũng có lúc đi quá phận sự của người làm báo. Nhận
thấy những hành vi của một số người làm báo là không thỏa đáng, các định chế
báo chí đứng đắn đã đặt ra những quy tắc đạo đức của nghề báo và của người làm
báo. Mặt khác, các quốc gia Tây Âu và Bắc Mỹ cũng ban hành nhiều luật lệ nhằm
ngăn ngừa sự vi phạm của người làm báo trong lúc hành nghề.Chỉ khi nào nhận
thức đầy đủ những cơ sở xuất phát này thì người làm báo mới giải quyết đúng đắn
và xử lý hài hòa các mối quan hệ liên quan đến các thành tố trên để giữ vững
đạo đức nghề nghiệp trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, ở mọi lúc, mọi nơi.
Trong thời gian xảy ra thế chiến thứ hai, vị chủ báo của
nhật báo Times và tạp chí ảnh Life (Hoa Kỳ) là Henry Luce có đề nghị với Giáo
sư Robert Hutchins là Viện trưởng Viện đại học Chicago lúc bấy giờ giúp tuyển
mộ một ủy ban thực hiện việc tìm hiểu về chức năng thích đáng của hoạt động
truyền thông trong một nền dân chủ hiện đại. Sau hơn bốn năm cân nhắc, mãi đến năm
1947, Ủy ban này mới đưa ra một bản hướng dẫn tổng quát gồm 7 điều:
1. Bất kỳ ai được hưởng một phạm vi tự do đặc biệt, như một
nhà báo chuyên nghiệp chẳng hạn, đều có một nghĩa vụ đối với xã hội trong việc
sử dụng quyền hạn và tự do của mình một cách có trách nhiệm.
2. Phúc lợi của xã hội là tối cao, quan trọng hơn hẳn sự
nghiệp của từng cá nhân hoặc kể cả những quyền cá nhân.
3.Báo chí phải trình bày những tin tức có ý nghĩa, chính
xác, và tách biệt với ý kiến riêng.
4. Báo chí phải phục vụ như một diễn đàn cho việc trao đổi
những bình luận, phê phán và để mở rộng việc tiếp cận những quan điểm khác
biệt.
5.Báo chí phải hướng đến một hình ảnh có tính cách đại diện
cho mọi cộng đồng họp thành xã hội bằng cách tránh những định kiến và phải kể
đến những cộng đồng thiểu số.
6.Báo chí phải làm sáng tỏ những mục tiêu và những giá trị
của xã hội; hàm ý là một lời kêu gọi tránh việc làm thỏa mãn cho nhóm thuộc mẫu
số chung nhỏ nhất.
7.Báo chí phải mang lại một sự đưa tin rộng rãi về những gì
được biết liên quan đến xã hội.
Bản hướng dẫn tổng quát của Ủy ban Hutchins đã gợi ý cho
Hiệp hội nhà báo Chuyên nghiệp Hoa Kỳ (Society of Professional Journalists) đưa
ra một bản quy tắc đạo đức của người làm báo, ngoài những điều khoản có tính
cách cụ thể hóa và chi tiết hóa những hướng dẫn tổng quát trên dưới đề mục
chung là Tìm kiếm sự thật để tường thuật, có đưa thêm ba đề mục chính là: Giảm
đến mức tối thiểu sự tác hại-Hành động một cách độc lập- Có trách nhiệm.
Đặc biệt, vào năm 1993, Nghị viện Liên hiệp châu Âu (European
Parliament) thông qua nghị quyết số 1003 nói về đạo đức của báo chí, là một
trong những văn bản hiếm có của giới lãnh đạo chính trị phương tây bàn về vấn
đề này. Bản nghị quyết này gồm 6 mục với 38 điều. Mục thứ nhất nêu sự phân biệt
giữa tin tức và ý kiến riêng; mục thứ hai xác định quyền được thông tin là một
quyền căn bản của con người và phân biệt chức trách vai trò giữa người sở hữu
cơ sở báo chí, người chịu trách nhiệm về cơ sở báo chí và người thực hành việc
làm báo với tư cách nhà báo chuyên nghiệp; mục thứ ba nêu rõ chức năng báo chí
và nêu rõ như thế nào là các hoạt động mang tính đạo đức của báo chí; mục thứ
tư chỉ có một điều nói về những luật lệ quản trị đối với ban biên tập; mục thứ
năm nói về những tình huống có tranh chấp và những trường hợp cần bảo vệ đặc
biệt; và mục cuối cùng nói về đạo đức tổng quát cùng với việc tự đặt ra điều
luật phải theo của các cơ sở báo chí.
Việt Nam
với vấn đề tự do báo chí:Thực tiễn hoạt động của báo chí từ lúc ra đời đã khẳng
định vai trò quan trọng của báo chí trong xã hội, đặc biệt là vai trò thúc đẩy
sự phát triển của xã hội. Luật báo chí của Việt Nam cũng tương đồng với những quy
chế hoạt động của tổ chức, hiệp hội nhà báo trên thế giới. Vì vậy, ” tự do báo
chí” cũng phải nhằm phục vụ cho sự phát triển đó. Nhà nước Việt Nam quản lý xã
hội bằng pháp luật, cho nên, mọi lĩnh vực hoạt động trong xã hội phải tuân theo
pháp luật. vậy đương nhiên, hoạt động báo chí cũng phải tuân theo pháp luật.Tự
do báo chí luôn luôn nằm trong sự quản lý của pháp luật, sẽ góp phần cho sự
phát triển của xã hội, khi giai cấp cầm quyền đại diện sự tiến bộ của lịch sử.
Ngược lại, khi họ lợi dụng danh nghĩa “tự do báo chí” để phục vụ giai cấp đã
cản trở sự tiến lên của lịch sử, thì đó chính là sự phản lại vai trò tiến bộ
của báo. Báo chí Việt Nam
có quyền đề cập tất cả các vấn đề mà pháp luật không cấm. Pháp luật chỉ cấm báo
chí tuyên truyền kích động bạo lực, kích dục, tuyên truyền cho chiến tranh, gây
chia rẽ đoàn kết dân tộc. Đây là điều cần thiết với tất cả các nước tiến bộ
trên thế giới, mong muốn xây dựng một xã hội hoà bình, ổn định, vì hạnh phúc
của nhân dân. Như vậy, dù với ý đồ nào đi chăng nữa, người ta không thể biện
minh cho cái gọi là “đàn áp” các nhà báo, “bóp nghẹt” báo chí. Nhắm mắt phủ
nhận pháp luật Việt Nam về tự do hoạt động báo chí, phủ nhận tính dân chủ, văn
minh của báo chí Việt Nam trong thời đại ngày nay là việc làm sai trái không
chấp nhận được. Thực tế quản lý hoạt động báo chí bằng pháp luật đã thể hiện
tính ưu việt của tự do báo chí của Việt Nam . Trong bất cứ một xã hội dân
chủ thì tự do của người này không thể làm mất tự do của người khác. Những hành
động trái với quy định về đạo đức nghề nghiệp báo chí, đều bị xử lý.Những tờ
báo hoạt động vi phạm quy định gây tác động xấu đối với xã hội đều bị xử phạt
theo các quy định của pháp luật .Việt Nam đã có Hội Nhà báo toàn quốc và các
hội địa phương, thu hút hơn 12 ngàn nhà báo là hội viên. Hội Nhà báo Việt Nam là thành
viên của Hội Nhà báo quốc tế (OIJ) và Liên đoàn báo chí ASEAN (CAJ). Hội đã
tham gia tích cực và đóng góp vào sự phát triển của báo chí khu vực và thế
giới, vì mục tiêu hoà bình, ổn định và thịnh vượng. Vậy thì, sự quản lý báo chí
bằng pháp luật ở Việt Nam
có cản trở quyền tự do báo chí của người dân cũng như những hoạt động báo chí
của các nhà báo không ? Xin thưa với các vị chuyên hành nghề vu khống là không
hề. Tất cả những điều quy kết của các vị dựa trên mớ cái gọi là “bằng chứng” của một số người có
tư tưởng xuất phát từ mưu đồ cá nhân, mưu toan quyền lực, với não trạng luôn
đặt lợi ích cá nhân lên trên lợi ích dân tộc, luôn tìm cách vu cáo, xuyên tạc
về tự do báo chí trong nước hòng nhận được sự hậu thuẫn của các thế lực từ bên
ngoài về tinh thần lẫn vật chất. Chúng ta đanh thép nói rằng: Những kẻ nào, tổ
chức nào dù cho họ được đỡ đầu bởi một chính phủ có tiềm lực như thế nào đi
chăng nữa Việt Nam vẫn dõng
dạc tuyên bố rằng : Việt Nam
là quốc gia có nền báo chí cách mạng tự do!